Bình vôi còn gọi là củ một, củ mối tròn, ngải tượng, tử nhiên, cà tom (Thổ
– Bộ phận dùng:
Bình vôi hay củ bình vôi (Tuber Stephaniae rotundae) là phần thân phình ra thành củ của cây bình vôi Stephania rotunda Lour,
Cây củ bình vôi cho ta các vị thuốc:
- Thân củ (Tuber Slephaniae rotundae) thái mỏng phơi hay sấy khô.
- Các hoạt chất, chủ yếu là chất rotundin.
Trước đây có người gọi nhầm cây này là “hà thủ ô” cho nên thuốc rotunđin chế từ cù bình vôi có người lại đặt tên là “thuốc an thần hà thủ ô”. Cần tránh nhầm lẫn với cây hà thủ ô.
– Tính vị quy kinh: Vị đắng hơi chua, quy kinh tâm và phế.
– Công dụng:
Trong nhân dàn củ bình vôi thái nhỏ, phơi khô được dùng dưới dạng sắc, ngâm rượu chữa hen, ho lao, lỵ, sốt, đau bụng, ngày uống 3 đến 6g. Có thể tán bột, ngâm rượu 40°c với tỳ lệ 1 phần bột 5 phần ruợu, rồi uống với liều 5 đến 15ml rượu một ngày. Có thể thêm đường cho dễ uống.
Rotundin clohydrat được đùng làm thuốc trấn kinh, trong các trường hợp mất ngủ, sốt nóng, nhức đầu, đau tim, đau dạ đày, hen.
– Liều dùng:
Ngày dùng 0,05g đèn 0,1g dưới dạng thuốc bột, thuốc viên. Có thể chế thành dạng tiêm 0,05g rotundin clohydrat hay sunfat trong ống 5ml (vì rotundin ít tan trong nước).
Trẻ con dùng với liều lượng 0,02g đến 0,025g đối với trẻ 1-5 tuổi, 0,03g đến 0,05g đối với trẻ 5-10 tuổi
– Mô tả:
Cây củ bình vôi là một loại cây mọc leo, phần dưới thân phát triển thành cù to, bám vào núi đá, có củ rất to, nặng tới hơn 20kg. Da thân củ màu nâu đen, xù xì giống như hòn đá, hình đáng thay đổi tuỳ theo nơi củ phát triển. Nếu mọc ở đất thì củ nhỏ hơn. Có người gọi là “củ gà ấp”. Hiện nay có người cho cây củ gà ấp là cây củ bình vôi mọc ờ núi đất. Có người lại cho là cây củ gà ấp và cây củ bình vôi là hai cây thuộc hai loài khác hẳn nhau (cần chú ý kiểm tra lại). Từ thân củ mọc lên nhũng thân màu xanh, nhỏ, mềm. Lá hình khiên, mọc so le, hình bầu dục hay hình tim hoặc tròn, đường kính 8-9cm, cuống lá dài 5- 8cm. Hoa nhỏ mọc thành tán. Hoa đực cái khác gốc. Hoa cái có cuống tán ngắn, còn hoa đực có cuống tán dài. Quả chín hình cầu màu đỏ, tươi, trong chứa một hạt hình móng ngựa.
– Thu hái, sơ chế:
Cây cù bình vôi thường ưa mọc ớ nhũng vùng có núi đá tại các tình Hà Tây, Hoà Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hoá và vùng núi An Giang v.v. … Nơi cao lạnh như Sapa (Lào Cai) cũng có. Tại những vùng núi đất có một cây hình dáng rất giống, nhưng củ nhỏ, thường chỉ bằng quả trứng vịt gọi là cây củ gà ấp.
Cù bình vói có thế thu hái quanh năm, đem về cạo bó vỏ đen, thái mỏng phơi khô rồi ngâm rượu hay sắc uống. Không phải chế gì khác.
Từ củ bình vôi, ta có thể chế biến ra chất rotudin thô hay tinh khiết như sau: Thái hay xát củ bình vôi như ta xát nấu. Ép lấy nước, bã còn lại thêm nước vào, khuấy đểu rồi lại ép nữa. Làm như vậy cho tới khi bã hết đắng (ancaloit ra hết). Nước ép để lắng, thêm nước vôi trong hoặc dung dịch cacbonat kiềm sẽ cho tủa rotundin thô. Lọc hay gạn lấy phơi hoặc sấy khô. Như vây ta sẽ được rotundin thô vừa gọn, vừa dễ bảo quản và dễ vận chuyển, không như củ bình vôi vừa cồng kềnh, bảo quản khó, chuyên chở không kịp dễ bị thối hỏng, tỷ lệ ancaloit hạ xuống. Từ rotundin thô, ta có thể chiết rotundin tinh khiết bằng cách dùng cồn hay dung dịch axit sunfuric 5 hay 10% nóng, lọc rổi kết tinh
Làm đi làm lại nhiều lần, theo nguyên tắc chung của chiết ancaloìt, ta sẽ được rotundin tinh khiết.
– Thành phần hóa học:
Năm 1940, Bùi Đình Sang đã chiết từ củ bình vôi mọc ờ Việt Nam các chất tinh bột, đường khử oxy, axit malic, men oxydaza và một ancaloít với tỷ lệ 1,2 đến 1,5% (tính trên củ tươi), được Bùi Đình Sang đặt tên là rotundìn.
Năm 1944, Kondo (Nhật) đưa ra công thức khai triển của rotundin như sau với công thức thô là CnH19 (OCH-CH3N).
Tại Ấn Độ, năm 1950 và 1952, Chaudry G. R và & Siddiqui nghiên cứu và chiết từ củ cây Stephania glabra (Roxb.) Miers nhiều ancaloit và đặt tôn là hyndarin stefarin. Trong đó hyndarin chiếm thành phần chù yếu (chừng 30% hyndarin, 15-18% stefarin và rất ít xycleanin).
Nghiên cứn cấu tạo hyndarin người ta thấy rằng hyndarin thực ra cũng chỉ là một ancaloit đã biết có tên là tetrahydropanmatin.
Trước năm 1965, người ta vẫn cho ràng hyndarin và rotundin là hai ancaloit khác nhau vì chiết từ hai cây khác nhau, mọc tại hai nước khác nhau, Nhưng đến nãm 1965, Viện nghiên cứu cây thuốc và cây có tinh dầu toàn liên bang Xô Viết cũ có dịp so sánh hai cây, một di thực từ Ấn Độ, một di thực từ Việt Nam, thấy rằng hai cây chỉ là một loài nên đã kiếm tra lại tính chất của rotundin và đã xác định rotundin và hyndarin chỉ là một chất và có cấu tạo cùa tetrahydropanmatìn (Công tác dược khoa, 6-1965). Nhưng thực tế rotundin của Bùi Đình Sang là một hổn hợp nhiều ancaloìt, trong đó chủ yếu là hyndarin.
Ngoài rotundin ra, năm 1964, tại Bộ môn được liệu (Trường đại học dược khoa, Hà Nội) Ngô Văn Thu còn chiết từ củ bình vôi Việt Nam một ancaloit mới với tỷ lệ 1 % và đặt tên là ancaloit Aroemerin đã được xác định công thức.
Nãm 1965 tại Liên Xô cũ, Phan Quốc Kinh và cộng sự cũng chiết từ củ bình vôi mang từ Việt Nam sang một số ancaloìt khác và đặt tên là ancaloit A, ancaloìt C và D với tỷ lệ 0,08% mỗi thứ (Hoá học các hợp chất thiên nhiên, 6-1965).
– Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc:
- Rotundin rất ít độc: Tiêm vào mạch máu một con thỏ với liều cao hơn 30mg/1kg thể trọng, con thỏ chỉ mệt 1-2 ngày, đổng tử bị liệt nhất thời rồi lại hết.
- Tác dụng trấn kinh rõ rệt trên nhu động vị tràng. Trên mẩu ruột lấy riêng, nó gây hiện tượug giảm khẩn rõ rệt mà vẫn duy trì sự co bóp đều hoà và kéo dài. Có thể dùng chữa những trường hợp tăng nhu động và ống tiêu hoá bị giật.
- Tác dụng điểu hoà đối với tim và bổ tim nhẹ.
- Còn có tác dụng điều hoà hô hấp có thế dùng chữa hen hay chữa nấc.
- A. Trutóva (Liên Xô cũ, 1961) còn chứng minh tác dụng an thần, gây ngủ và chống co quắp, hạ huyết áp.
Đốì với những ancaloit khác của củ bình vôi, chỉ có ancaloit A (tức là roemerin) do Ngô Văn Thu chiết, được Dương Hữu Lợi thí nghiệm dược lý (L học Việt Nam, 1-1966) và đã đi tới những kết luận sau đây:
- Dung dịch anealoit A có tác dụng gây tê niêm mạc và phong bế: Tính theo còng thức G. Valette, dung dịch 0,5% có tác dụng gây tê miêm mạc tương đương với dung dịch 1,8% clohydrat cocaĩn, theo thí nghiệm của Mak và Nelson, dung dịch ancaloit A 0,5% có tác dụng gây tê phong bế mạnh hơn dung dịch clohydrat cocain 1% và dung dịch novocain 3%.
- Ancaloit A làm giảm biên độ và tần số co bóp của tim ếch cô lập, nhưng với liều mạnh hơn, tim ếch ngừng ở thời kỳ tâm trương. Điều này chứng tỏ dung dịch ancaloit A có ảnh hưởng trực tiếp trên tấm cơ và làm ngừng co bóp. Dung dịch ancaloit A có tác dụng đối lập với tác dụng gây tăng trương lực và nhu động co bóp ruột của dung dịch axetylcholin. Dung dịch ancaloit A có tác dụng an thần gây ngủ với liều lượng nhẹ nhưng với liểu cao kích thích thần kinh hệ trung ương, gây co giật và chết. Điểm này, dung địch ancaloit A hoàn toàn khác hẳn với dung dịch rotundin. Ngoài ra, ancaloit A có tác dụng giãn mạch hạ huyết áp, giảm cả huyết áp tối đa và tối thiểu.
- Dung dịch ancaloit A có độc tính DL50: 0,125g/kg thể trọng chuột, như vậy liều độc tương đương với clohydrat cocain, đồng thời dung dịch ancaloit A cũng có những biếu hiện độc như cocain (kích thích thần kinh hệ trung ương, biểu hiện co giật…).
Trên lâm sàng rotundin được áp dụng rộng rãi và để điều trị có kết quả một số trường hợp đau tim, mất ngủ, hen, đau bụng, lỵ amíp. Tác dụng rõ rệt nhất là ngủ và an thần.
Bình luận